Đi tìm công lý
Nguồn từ báo Dân luận:
Nguyễn Thị Ánh Hiền – Đi tìm
sự hợp lý trong lý do biện minh "tự vệ" ở vụ án Đoàn Văn Vươn
Nguyễn
Thị Ánh Hiền
Vào khoảng thời gian từ
2/4-5/4 tới đây, sẽ diễn ra phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ cưỡng chế đất đai ở
Tiên Lãng đối với ông Đoàn Văn Vươn và người thân với tội danh: Giết người
đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm 2 khoản 1 điều
93 Bộ luật Hình sự). Với cáo trạng của Viện kiểm sát, nhiều ý kiến đưa ra rằng:
việc gài mìn kích bình ga, dùng súng hoa cải… mục đích không phải để giết người
mà là biện pháp tự vệ để bảo vệ tài sản trong khu đầm.
Bài viết này tập trung phân
tích liệu lý do để biện minh cho lý lẽ “tự vệ” trong vụ án này là một lời biện
minh hợp lý?
Luật hình sự đuợc xây dựng
gồm hai mục đích chính: phòng ngừa tội phạm và trừng phạt những kẻ phạm tội.
Trừng phạt hình sự là biện pháp cần thiết bởi tội phạm đã làm điều sai trái từ
góc độ đạo đức và tính chất nguy hiểm, tác hại đối với xã hội. Tuy nhiên, trong
một số hoàn cảnh đặc biệt, có những hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm nhưng
không có vẻ trái đạo đức thì hành vi đó không bị coi là tội phạm, có thể tha
thứ hoặc được khuyến khích. Trong trường hợp này, hành vi mà người tiến hành bị
can thực hiện là không đúng, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt khiến bị can không còn
cách nào khác, bắt buộc phải lựa chọn thực hiện hành vi xấu ít hơn, tức là có
lý do để biện minh cho hành động của bị can và bị can không phạm tội. Một trong
những lý do biện minh này là tự vệ hay còn gọi là phòng vệ chính đáng.
Về lý do biện minh là “tự vệ”
Con người ai cũng có quyền tự
vệ khi bị kẻ khác đe dọa tính mạng hoặc lợi ích chính đáng của mình. Tự vệ,
trước hết đó là quyền cơ bản của con người. Biện pháp tự vệ được sử dụng khi
phải đối mặt với tình huống sắp bị tấn công hoặc sắp bị đe dọa. Nếu không tự vệ
thì nguy cơ xảy ra thiệt hại rất nghiêm trọng.
Theo
Bộ luật Hình sự Vịêt Nam, quyền tự vệ này được quy định tại Điều 15: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của
người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là
tội phạm."
Theo điều luật trên, chúng ta
nhận thấy rằng, yếu tố quyết định tự vệ hay không nằm ở yếu tố “chống trả lại
một cách cần thiết”, tức để biện minh cho hành vi tự vệ của mình, phải đảm bảo
yếu tố: phải có niềm tin về sự cần thiết để tự vệ trong tình huống đó (tức “có
nhận thức và đánh giá tương đối khách quan về sự cần thiết “chống trả lại”),
nhận biết nó chắc chắn sẽ xảy ra nên đòi hỏi phải có sự chống trả lại một cách
cần thiết để bảo lợi ích chính đáng của mình khi không còn sự lựa chọn nào
khác.
Việc xem xét những trường hợp
phòng vệ chính đáng thường khó khăn, nên Tòa án nhân dân tối cao đã tổng kết
thực tiễn xét xử và ban hành Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 để hướng dẫn. Hành
vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính
đáng khi có đủ các điều kiện sau đây [1]:
a) Hành vi xâm hại
những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất
nguy hiểm cho xã hội.
b) Hành vi nguy hiểm
cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức
khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
c) Phòng vệ chính đáng
không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống
lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
d) Hành vi phòng vệ
phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng
giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn
này, chỉ có 2 loại khách thể là tính mạng và sức khỏe mới là đối tượng để người
thực hiện hành vi sử dụng biện pháp tự vệ. Trong khi theo điều 15 BLHS thì lại
quy định, khách thể là những quyền, lợi ích chính đáng. Đây là một điểm không
hợp lý trong chỉ thị hướng dẫn của tòa án tối cao. Vì xét về mặt quyền con
người, con người có ba quyền cơ bản nhất không thể xâm phạm: đó là quyền sống,
quyền tự do và quyền tài sản. Về mặt nguyên tắc, ba quyền này phải được bảo vệ
theo luật định, và nhà nước phải có nghĩa vụ bảo vệ các quyền này.
Do đó, khi xem xét lý do biện
minh “tự vệ” có hợp lý hay không trong quá trình thực hiện hành vi của ông
Vươn, sự hợp lý đó phải được xem xét ở các yếu tố sau:
-
Có lợi ích chính đáng cần
được bảo vệ
-
Có niềm tin về sự cần
thiết “chống trả lại một cách cần thiết” để tự vệ trong tình huống này
-
Sự chống trả đó là một
điều cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại
Thứ nhất, về yếu tố lợi ích
chính đáng cần được bảo vệ
Trong
trường hợp này lợi ích chính đáng là tài sản. Từ năm
1993, ông Vươn đã thực hiện công việc lấn biển để nuôi trồng thủy sản, khởi nghiệp
bằng việc bán tài sản, vay mượn bạn bè, người thân và ngân hàng. Quá trình này
một quá trình cực kì gian khổ chịu nhiều thiệt hại mất mát thậm chí là mạng
sống người thân của gia đình, đó là cái chết của con gái đầu 8 tuổi bị rơi
xuống cống chết đuối trong một lần theo bố mẹ ra đầm. Là cái được gây dựng bằng
mồ hôi, sự tâm huyết, lòng kiên trì, xương máu. Mất tài sản trước hết cuộc sống
sẽ lao đao, nhưng hơn cả yếu tố kinh tế, hơn cả yếu tố “chính đáng”, đó là lợi
ích một mất một còn. Yếu tố thứ nhất được thỏa mãn.
Thứ hai, về yếu tố có niềm
tin về sự cần thiết “chống trả lại một cách cần thiết“ để tự vệ
Yếu
tố niềm tin về sự cần thiết này thể hiện hai khía cạnh: có
hành vi xâm hại đến lợi ích chính đáng của mình, nhận biết nó chắc chắn sẽ xảy
ra đòi hỏi cần phải có sự tự vệ để chống trả.
Trong trường hợp này, hành vi
xâm hại đến quyền và lợi ích của ông Vươn là việc tiến hành cưỡng chế của chính
quyền Tiên Lãng. Qua những tài liệu đã có, từ năm 2006, ông Đoàn Văn Vươn đã
nhận thức được lệnh thu hồi quyền sử dụng đất đai của ông ta là trái pháp luật.
Hành vi này đuợc Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Đặng Hùng Võ khẳng
định: "Việc thu hồi đất ở Tiên Lãng chắc chắn là sai pháp luật” [2]. Trong
buổi họp kết luận điều tra vào ngày 10/2/2012, Thủ tướng cũng khẳng định rằng
quyết định thu hồi đất không đúng với pháp luật [3]. Việc thu hồi đất trong
trường hợp này rõ ràng là hành vi xâm hại trái pháp luật, tức có hành vi xâm
hại trái luật đến lợi ích chính đáng của mình.
Vì
nhận thức được lệnh thu hồi quyền sử dụng đất là sai, ông Vươn đã khởi kiện ra
tòa án để đòi công lý. Ở khía cạnh này cần chú ý điểm quan trọng: ông Vươn đã
nhận biết việc thu hồi quyền sử dụng đất như vậy là trái pháp luật, và đã tiến
hành các biện pháp khác trước đó để bảo vệ tài sản của mình là khởi kiện vụ
việc ra tòa án, chờ đợi quyết định giải quyết công tâm khách quan của cơ quan
thứ ba là tòa án và vẫn theo đuổi việc đi tìm công lý (vào khoảng hơn 7h sáng
5/3, buổi sáng đụng độ đầu tiên giữa gia đình và tổ công tác số 3 – phía lực
lượng cưỡng chế, Đoàn Văn Vươn vắng mặt vì lúc đó bận lên Viện Kiểm sát nhân
dân Hải Phòng kháng cáo [4]). Nhưng tòa án huyện Tiên Lãng và tòa
án Hải phòng đã làm nghiêng lệch cán cân công lý. Về nguyên tắc nhà nước phải có nghĩa
vụ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người dân, nhưng trường hợp này lại bất
chấp luật pháp luật pháp để tiến hành cưỡng chế, ông Vươn - người tiến hành
hành vi lại nhận biết điều này, vậy khi niềm tin trông chờ cái gọi là luật
pháp công lý, còn có cách nào khác hơn là tự vệ để bảo vệ lợi ích của mình? Một lợi ích đã đổ biết tâm huyết và
xương máu.
Thứ ba, về yếu tố sự chống trả
đó là một điều cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại
Như đã phân tích ở trên, ông
Vươn có quyền bảo vệ tài sản của mình khi quyền đó bị đe dọa, khi niềm tin (và
thực tế đã xảy ra) vào luật pháp và tòa án đã lung lay, quyền bảo vệ đó sẽ trỗi
dậy càng mạnh mẽ. Trong trường hợp này, quyền về tài sản của ông Vươn sắp bị đe
dọa, mối đe dọa đó rất nghiêm trọng, không còn sự lựa chọn hợp lý nào khác,
hoặc là tự vệ hoặc là mất của cải. Chúng ta đặt giả thiết, nếu nguy cơ xảy ra
thiệt hại không quá nghiêm trọng, thì việc sử dụng vũ khí như mìn, súng hoa cải
trong trường hợp này… là hành vi không thể biện minh. Nhưng nếu tài sản là cái
gắn với sinh mạng mồ hôi sương máu, là tâm huyết, là nguồn sống gia đình, mất
tài sản trong câu chuyện ông Vươn và gia đình ông Vươn có nghĩa là mất hết,
thiệt hại đó có được xem là không nghiêm trọng?!
Về yếu tố tương xứng, tương
xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại
phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã
gây ra cho người phòng vệ. Để xem xét hành vi chống trả có tương xứng hay không
thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan giữa hành vi xâm hại và
hành vi phòng vệ. Ví dụ là các yếu tố như mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại
có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương
tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng…
Lực
lượng cưỡng chế được huy động trong vụ án này bao gồm ba lực lượng vũ trang
chính quy có trong huyện: Công an, Quân đội, và đồn biên phòng 46, lên đến 100
người; phía gia đình ông Vươn gồm 6 người (Đoàn Văn Vươn, có các anh em của
ông Vươn Đoàn Văn Sịnh, Đoàn Văn Quý và Đoàn Văn Vệ, Vợ ông Vươn là Nguyễn Thị
Thương, em dâu ông Vươn là Phạm Thị Báu. Vũ khí gia đình ông Vươn dùng 2 quả
mìn tự chế để kích nổ bình ga và súng hoa cải; phía lực lượng cưỡng chế vũ, do
lực lượng tham gia là ba lực lượng vũ trang chính quy Công an, Quân đội, và đồn
biên phòng, nên vũ khí súng sẽ được trang bị, ngoài ra còn có mũ, áo chống đạn,
khiên che. Rõ ràng khi xem xét mối tương quan
lực lượng, cũng như phương tiện trang bị hai bên, phía ông Vươn mất tương xứng
hơn về lực lượng cũng như trang bị vũ khí.
Về việc đánh giá sự tương
xứng trong quá trình thực hiện hành vi với các yếu tố như thời gian, địa điểm,
các tình tiết xảy ra… thì có thể chia ra thành 2 nhóm như sau.
Nhóm hành vi 1:
Gia đình ông Vươn cho kích nổ
quả mìn tự tạo vào tổ công tác 3 (đội đi đầu tiến hành cưỡng chế đầu tiên), địa
điểm đặt mìn cách hàng rào 40m. Quý chập điện cho mìn và bình gas gây nổ nhưng
không phát nổ và rơi xuống đầm nên không làm ai bị thương [5]. (Trong khi các
tổ khác của đoàn cưỡng chế và Đoàn Văn Vươn còn đang ở UBND xã Vinh Quang cách đó
gần 3 km, Đoàn Văn Vươn vắng mặt vì lúc đó bận lên Viện Kiểm sát nhân dân Hải
Phòng kháng cáo.)
Ông Vươn là bộ đội công binh
nên khi chế tạo quả mìn, sẽ nhận biết rằng với lượng thuốc nổ của 02 quả mìn tự
tạo để kích nổ bình ga, trên mỗi bình ga là 02 nửa bao đá nếu kích nổ không thể
gây ra chết người một cách chắc chắn.
Giả sử nếu ông Vươn có chủ
tâm muốn tước đi mạng sống người tham gia cưỡng chế, với kinh nghiệm trong vai
trò bộ đội công binh của mình, sức công phá của quả mình để giết người và để
ngăn cản sự cưỡng chế được chế tạo sẽ khác nhau. Nếu có mong muốn giết người
thì ông Vươn với kiến thức bộ đội công binh phải để lực lượng cưỡng chế bước
lên nơi đặt mìn mới kích nổ thì hậu quả chết người mới chắc chắn xảy ra. Và do
không có chủ tâm giết người nên khi lực lượng cưỡng đến sát hàng đã kích nổ mìn
chỉ để gây sát thương, đe dọa lực lượng cưỡng chế. Nếu không chủ tâm nhằm tước
đi mạng sống của người khác khi thực hiện hành vi thì không đủ yếu tố cấu thành
bắt buộc trong tội giết người.
Nhóm hành vi 2:
Lực lượng cưỡng chế tiến sát
hàng rào thứ hai cách nhà ông Quý 18m thì anh em nhà ông Vươn ở trong nhà dùng
súng đạn hoa cải bắn ra. Trong lúc này, lực lượng cưỡng chế có trang bị mũ, áo
chống đạn, khiên che nên không thể gây ra hậu quả giết người, hành vi này chỉ
nhằm đe dọa hoặc gây sát thương để tìm đường chạy trốn nên không thể coi là
hành vi của tội giết người. Trong khoa học hình sự, nếu người thực hiện hành vi
có lý do chính đáng, không chủ tâm nhằm tước đi mạng sống người khác thì không
bị coi là phạm tội giết người.
Đối với lý do “tự vệ” lấy làm
biện minh, thì yếu tố quan trọng nhất cần xem xét là niềm tin về sự cần thiết
phải tự vệ đó có hợp lý và có khách quan trong toàn bộ vụ việc hay không. Vì
nếu niềm tin đó mang tính chủ quan, thì lý lẽ “tự vệ” sẽ được dùng để biện hộ
cho hành vi của mình vì nóng nảy hoặc liều lĩnh. Và theo như phân tích các yếu
tố trên đây, khi xem xét các yếu tố khách quan, các tình tiết vụ án, tôi nhận
định là lý do “tự vệ” để biện minh trong vụ án liên quan đến ông Vươn và gia
đình là hợp lý. Đó là kết quả của quá trình tìm kiếm đấu tranh cho quyền lợi
của mình – khi luật pháp công lý bị bẻ cong không đứng về phía người dân, khi
việc thực thi quyền lực nhà nước là một sự áp bức lạm quyền, tự vệ trước hết là
một quyền, và còn là biện pháp duy nhất để bảo vệ lợi ích của mình.
Và có một câu châm ngôn cổ
rất hay nói rằng: một hành vi không làm cho một người có tội trừ phi tâm của họ
có tội.
29/3/2013
Nguyễn Thị Ánh Hiền
Sinh viên Luật, Đại học Luật HCM
Nguyễn Thị Ánh Hiền
Sinh viên Luật, Đại học Luật HCM
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen